IELTS là
gì ?
IELTS
/ˈaɪ.ɛlts/ (International English Language Testing System)
là một hệ thống bài kiểm tra về khả năng sử dụng thành thạo tiếng Anh trải dài
qua cả bốn kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết. Bài thi được đồng điều hành bởi ba tổ
chức : ESOL
của Đại học Cambridge (University of Cambridge ESOL), Hội đồng Anh (British Council) và tổ chức giáo dục IDP của Úc và được triển khai từ năm 1989. Người
thi có thể lựa chọn giữa hai hình thức: Academic (học thuật) hoặc General
training module (đào tạo chung):
- Loại hình học thuật
dành cho những ai muốn học ở bậc đại học hoặc những học viện, các hình thức đào
tạo sau đại học.
- Loại hình đào tạo chung
dành cho những ai muốn tham gia những khóa học nghề, muốn tìm việc làm, hoặc vì
mục đích di cư.
IELTS được chấp nhận bởi
phần lớn các học viện ở Úc, Anh, Canada, Ireland, New Zealand, Hoa Kỳ và nhiều
tổ chức nghề nghiệp. Nó cũng là một yêu cầu bắt buộc đối với việc di cư đến Úc
và Canada.
Kết quả của kì kiểm tra
IELTS (TRF-Test Report Form) sẽ có hiệu lực trong vòng 2 năm. Trong năm 2007,
đã có hơn một triệu thí sinh tham dự kì kiểm tra IELTS. IELTS cũng đã trở thành
hệ thống kiểm tra ngôn ngữ tiếng Anh dành cho bậc sau đại học và người di cư phổ
biến nhất trên thế giới.
Những
tính chất đặc trưng của kì thi : Bài thi IELTS bao gồm những
nét đặc trưng sau:
- Trong bài kiểm tra sẽ có
nhiều kiểu giọng tiếng Anh của các nơi như: Anh, Mĩ, Úc để tránh sự phân biệt
ngôn ngữ. Trong khi TOEFL chỉ bao gồm tiếng Anh của vùng Bắc Mĩ, IELTS luôn được
công nhận là đáng tin cậy hơn TOEFL bởi một số cá nhân và tổ chức (đặc biệt là
các tổ chức ngoài Mĩ), mặc dù nhìn bề ngoài thì có bao gồm cả những bài thi
nghe của giọng Anh và giọng Úc.
- IELTS kiểm tra khả năng
nghe, nói, đọc và viết bằng tiếng Anh.
- Hai dạng bài thi có thể
được lựa chọn 1: Học thuật và dạng đào tạo chung.
- Điểm sẽ được chấm cho từng
kĩ năng nhỏ (nghe, nói, đọc, viết). Thang điểm từ 1 (không biết sử dụng) đến 9
(sử dụng thông thạo).
- Bài kiểm tra kĩ năng nói,
một nét đáng chú ý của IELTS, sẽ được thực hiện dưới hình thức giao tiếp trực
tiếp giữa thí sinh và người chấm thi. Người chấm thi sẽ đánh giá thí sinh khi họ
đang thực hiện bài nói của mình. Bài nói cũng được ghi âm để chấm lại, đối chiếu
với bảng điểm đánh giá đã đưa ra trước đó.
- Đội ngũ những người chấm
thi IELTS đến từ nhiều nơi trên thế giới: Mỹ, Anh, Úc, New Zealand, Canada,
Ireland và các nước nói tiếng Anh khác.
Cấu
trúc bài thi IELTS : Bài thi IELTS đánh giá
toàn diện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết. Các thí sinh sẽ thi chung phần nghe
và nói trong khi phần thi viết và đọc sẽ khác biệt tuỳ theo việc thí sinh đó
đăng ký hình thức thi Học thuật hay Đào tạo chung.
- Bài
thi nghe (Listening) : Thời gian làm bài thi
nghe là 30 phút với 40 câu hỏi. Thí sinh sẽ nghe tất cả các câu hỏi và độ khó của
từng phần sẽ tăng dần. Bài thi bao gồm nhiều dạng khác nhau như thông tin từ một
người, cuộc đàm thoại của 2 hoặc nhiều người. Và thí sinh sẽ nghe nhiều giọng
phát âm của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, bạn sẽ có thời gian để đọc câu
hỏi và chuẩn bị câu trả lời. Bài thi nghe có 4 phần, mỗi phần có 10 câu hỏi,
thí sinh chỉ được nghe duy nhất một lần, các đoạn nghỉ được ghi kèm trong băng
hoặc đĩa. Cuối bài thi các thí sinh sẽ có 10 phút để ghi lại kết quả vào Phiếu
trả lời câu hỏi.
- Phần 1: là các tình huống
đời thường (đăng ký hoạt động, thuê nhà, nhập học) thường là 1 cuộc nói chuyện
nhưng là hỏi đáp, và người đáp thường nói nhiều hơn.
- Phần 2: là các tình huống
hướng dẫn và giới thiệu về 1 chủ đề quen thuộc (trường học, khu du lịch, chương
trình ca nhạc, triển lãm,..) thường chỉ nói bởi 1 người.
- Phần 3: là các tình huống
đối thoại giữa ít nhất là 2 người, đây là các cuộc thảo luận có tính chất học
thuật hơn (Ví dụ: chọn chủ đề khóa luận, đề tài nghiên cứu khoa học).
- Phần 4: là 1 bài thuyết
trình về 1 chủ đề học thuật, thường do 1 người nói và dùng nhiều từ ngữ mang
tính chất học thuật.
Lưu ý: Cập nhật một số
thay đổi mà IELTS Official đã công bố về cấu trúc mới của IELTS Listening (có
hiệu lực từ 4/1/2020):
- Các bài trong bài
Listening sẽ không được gọi là "Section" nữa mà sẽ gọi là
"Part". Số lượng bài thi vẫn là 4.
- Trong phần mở đầu bài
thi ở Section 1 (nay là Part 1), thí sinh sẽ không được nghe ví dụ mẫu thực hiện
bài làm như trước.
- Trong mỗi bài, hướng dẫn
cho thí sinh sẽ không đề cập cụ thể số trang trên đề đó nữa (Ví dụ: Mở trang 2
trong đề và nhìn vào…)
- Bài
thi đọc (Reading) :
- Dành cho dạng học thuật
(Academic): Bài thi gồm khoảng 40 câu
hỏi, thời gian làm bài là 60 phút (không có thời gian dành cho ghi lại câu trả
lời cuối bài thi). Bài thi thông thường bao gồm 3 phần và phần trả lời câu hỏi.
Mỗi phần là 1 đoạn văn khoảng 1500 từ với câu hỏi được chia tương đối đều. Các
đề tài thường trích dẫn từ sách, báo, tạp chí hoặc tập san và những đề tài này
không mang tính chất chuyên môn. Bài thi thông thường bao gồm 1 đề tài thảo luận.
- Dành cho dạng không học
thuật (General Training):Thời gian làm bài thi
cũng là 60 phút, gồm 40 câu hỏi như bài Đọc của dạng thi Academic. Các đề tài
trong bài thi đọc thông thường liên quan đến các tình huống hàng ngày ở các nước
nói tiếng Anh. Các đề tài thường trích dẫn từ sách, báo, mẫu quảng cáo, các hướng
dẫn sử dụng mục đích để đánh giá khả năng hiểu và xử lý thông tin của từng thí
sinh. Các đề tài trong bài thi thông thường bao gồm đoạn văn mô tả hơn là những
bài luận văn.
- Bài
thi viết (Writing) :
- Dành cho dạng học thuật
(Academic). Thời gian làm bài thi là
60 phút (thí sinh phải tự phân phối thời gian). Được chia làm 2 phần:
- Phần 1: thí sinh thường
được yêu cầu viết bài báo cáo ít nhất 150 từ để mô tả và giải thích các số liệu,
dữ liệu trên các biểu đồ, một quá trình, một hiện tượng được biểu diễn dưới dạng
hình vẽ. Phần này nên được hoàn thành trong không quá 20 phút.
- Phần 2: thí sinh thường
được yêu cầu viết bài tiểu luận ít nhất 250 từ để đưa ra những chính kiến tranh
luận hay nhận định về 1 ý kiến hoặc vấn đề. Thí sinh nên đưa ra những tình huống
và ví dụ cụ thể để hỗ trợ cho nhận định của mình. Phần này nên được hoàn thành
trong không quá 40 phút và được tính điểm gấp đôi so với phần 1.
- Dành cho dạng không học
thuật (General Training).Thời gian làm bài thi
cũng là 60 phút, được chia làm 2 phần:
- Phần 1: thí sinh thường
được yêu cầu viết bức thư ít nhất 150 từ với mục đích là hỏi thông tin hay giải
thích về 1 tình huống trong cuộc sống. Phần này nên được hoàn thành trong không
quá 20 phút.
- Phần 2: thí sinh thường
được yêu cầu viết bài tiểu luận ít nhất 250 từ để đưa ra quan điểm của 1 sự việc
hay vấn đề. Thí sinh cần phải đưa ra chính kiến của mình hoặc trích dẫn ý kiến.
Thí sinh nên đưa ra những tình huống và ví dụ cụ thể để hỗ trợ cho nhận định của
mình. Phần này nên được hoàn thành trong không quá 40 phút và được tính điểm gấp
đôi so với phần 1.
- Bài
thi nói (Speaking) : Thời gian của bài thi nói
thông thường là từ 11 - 14 phút. Thí sinh sẽ trò chuyện trực tiếp với giám khảo.
Thí sinh cần thể hiện các khả năng: trả lời lưu loát các câu hỏi, thông thạo
các đề tài và khả năng giao tiếp với giám khảo. Giám khảo sẽ đánh giá trình độ
tiếng Anh của thí sinh dựa vào 4 yếu tố: Từ vựng, Ngữ pháp, Lưu loát và Phát
âm.[10] Có thể tạm chia bài thi nói ra 3 phần:
- Phần 1: Trả lời các câu hỏi
về các chủ đề chung chung như quê hương, gia đình, sở thích,...
- Phần 2: Người hỏi sẽ đưa
cho bạn 1 yêu cầu về nói về một chủ đề nhất định, trong yêu cầu sẽ có các gợi ý
để thí sinh có thể dễ dàng phát triển ý. Thí sinh có 1 phút để suy nghĩ, trong
quá trình suy nghĩ có thể ghi chú ngoài giấy nháp, và nhiều nhất là 2 phút để
trả lời. Kết thúc phần trả lời, người hỏi có thể sẽ hỏi thêm 1 đến 2 câu hỏi.
- Phần 3: Người hỏi sẽ hỏi
bạn các câu hỏi về chủ đề liên quan tới hiện tượng và sự việc mà bạn đã trình
bày ở phần 2. Các câu hỏi ở phần này thường là các loại sau: Discuss (bàn luận),
Compare (so sánh), Speculate (dự đoán), Analyse (phân tích), Explain (giải
thích), Evaluate (đánh giá).
Tổng
thời gian thi : Toàn bộ bài thi sẽ diễn
ra trong vòng 2 giờ 45 phút cho các kỹ năng Nghe, Đọc và Viết.- Bài thi nghe: 40 phút, 30
phút là thời gian đoạn băng được phát cho bài thi nghe, và sẽ có 10 phút sau đó
để thí sinh điền đáp án vào phiếu trả lời.
- Bài thi đọc: 60 phút.
- Bài thi viết: 60 phút.
- Bài thi nói: 11–14 phút.
(Lưu ý: Không có thời
gian cộng thêm cho thí sinh để điền đáp án cho 2 phần thi đọc và viết)
- Thứ tự của 3 bài thi đầu
tiên luôn là Listening, Reading và Writing sẽ được diễn ra và hoàn tất trong
vòng một ngày, trên thực tế sẽ không có thời gian nghỉ giải lao giữa các phần
thi. Phần thi Speaking có thể diễn ra cùng ngày hoặc không quá 7 ngày trước hoặc
sau ngày thi các phần thi khác.
- Bài thi được thiết kế để
khai thác hết khả năng của người học từ người mới học cho đến chuyên gia.
Hệ
thống điểm IELTS : Cách tính điểm
- Thang điểm của IELTS là từ
1 – 9. Trên bảng kết quả của thí sinh sẽ thể hiện điểm của từng kỹ năng thi. Phần
điểm tổng sẽ được tính dựa trên điểm trung bình cộng của 4 kỹ năng.
- Điểm tổng của 4 kỹ năng sẽ
được làm tròn số theo quy ước chung như sau: Nếu điểm trung bình cộng của 4 kỹ
năng có số lẻ là.25, thì sẽ được làm tròn lên thành.5, còn nếu là.75 sẽ được
làm tròn thành 1.0.
Ví dụ: một thí sinh có số
điểm như sau: 6.5 (Nghe), 6.5 (Đọc), 5.0 (Viết) và 7.0 (Nói). Điểm trung bình của
thí sinh này là 6.5 (25 ÷ 4 = 6.25 = 6.5)
Tương tự cách tính, một
thí sinh có số điểm như sau: 4.0 (Nghe); 3.5 (Đọc), 4.0 (Viết) và 4.0 (Nói).
Như vậy điểm trung bình sẽ là 4.0 (15.5 ÷ 4 = 3.875 = 4.0)
Trong trường hợp thí sinh
có số điểm là 6.5 (Nghe), 6.0 (Đọc), 6.0 (Viết) và 6.0 (Nói). Như vậy điểm
trung bình của thí sinh này là 6 (24.5 ÷ 4 = 6.125 = 6)
Phần thi Nghe và Đọc : Bài thi Nghe và Đọc bao gồm
40 câu. 1 câu trả lời đúng thí sinh sẽ được 1 điểm; Số điểm tối đa có thể đạt
được là 40 cho từng bài thi. Thang điểm từ 1 – 9 sẽ được tính dựa trên số câu
trả lời đúng.
Mặc dù tất cả các câu hỏi
đã qua nhiều công đoạn như: Khảo sát bài thi, thi thử trước khi các câu hỏi này
có thể sử dụng trong đề thi chính thức. Tuy nhiên sẽ vẫn có những chêch lệch nhỏ
về độ khó dễ của từng bài thi. Do vậy, để tạo sự công bằng cho từng bài thi,
thang điểm chuyển đổi sẽ có thay đổi theo từng bài thi. Điều này có nghĩa là
cùng điểm 6 nhưng sẽ có sự chêch lệch số câu trả đúng cho từng bài thi khác
nhau.
Bảng thông tin bên dưới
giúp các bạn hiểu thêm về cách chuyển đổi điểm của thí sinh theo từng cấp độ
khác nhau của bài thi: Nghe và Đọc của năm 2021. Ngoài ra, bạn cũng sẽ hiểu
thêm về cách chuyển đổi từ số câu hỏi đúng thành điểm cuối cùng của bài thi.
Bài Nghe Bài Đọc học thuật (AC) Bài Đọc phổ thông (GT)
Điểm Câu đúng/40 câu Điểm Câu đúng/40 câu Điểm Câu đúng/40 câu
1.0 0 1.0 0 1.0 0
1.5 1 1.5 1 1.5 1 - 2
2.0 2 2.0 2 2.0 3 - 4
2.5 3 - 4 2.5 3 - 4 2.5 5 - 7
3.0 5 - 6 3.0 5 - 6 3.0 8 - 11
3.5 7 - 9 3.5 7 - 9 3.5 12 - 14
4.0 10 - 12 4.0 12 - 14 4.0 15 - 18
4.5 13 - 15 4.5 13 - 15 4.5 19 - 22
5.0 16 - 19 5.0 16 - 19 5.0 23 - 26
5.5 20 - 22 5.5 20 - 22 5.5 27 - 29
6.0 23 - 26 6.0 23 - 26 6.0 30 - 31
6.5 27 - 29 6.5 27 - 29 6.5 32 - 33
7.0 30 - 32 7.0 30 - 32 7.0 34 - 35
7.5 33 - 34 7.5 33 - 34 7.5 36 - 37
8.0 35 - 36 8.0 35 - 36 8.0 38
8.5 37 - 38 8.5 37 - 38 8.5 39
9.0 39 - 40 9.0 39 - 40 9.0 40
Cách chấm điểm của cả hai
dạng bài thi: học thuật (AC) và không học thuật (GT). Điểm khác biệt giữa 2 bài
thi này là về thể loại và ngôn ngữ sử dụng trong bài thi. Hầu hết đề thi của loại
hình học thuật thường có nhiều từ vựng khó và cấu trúc câu phức tạp hơn. Do vậy,
cùng một điểm số nhưng thông thường số câu trả lời đúng của loại hình không học
thuật (GT) yêu cầu phải nhiều hơn loại hình học thuật (AC).
Phần
thi Viết và Nói : Giám khảo sẽ dựa vào bảng
mô tả chi tiết thang điểm 1 – 9 của thí sinh để chấm điểm cho bài thi Viết và
Nói.
- Bài thi Viết:
Giám khảo sẽ cho điểm từng phần, bao gồm: Khả năng hoàn thành yêu cầu bài thi –
Task Achievement (đối với đề tài 1) hay khả năng trả lời bài thi – Task
Response (đối với đề tài 2), tính gắn kết - kết nối giữa các câu, đoạn văn –
Coherence and Cohesion, Vốn từ – Lexical Resource và Ngữ pháp – Grammatical
Range and Accuracy. Số điểm cho mỗi phần là như nhau.
- Bài thi Nói:
Giám khảo sẽ cho điểm từng phần, bao gồm: Sự lưu loát và tính gắn kết của bài
nói – Fluency and Coherence, Vốn từ - Lexical Resource, Ngữ pháp – Grammatical
Range and Accuracy và Cách phát âm – Pronunciation. Số điểm cho mỗi phần là như
nhau.
Các bảng mô tả thang điểm
cho môn thi Viết và nói luôn được cập nhật để giúp các thí sinh hiểu rõ hơn về
các yêu cầu của từng phần. Các giám khảo IELTS phải trải qua khóa đào tạo tập
trung về các quy chuẩn chấm thi để đảm bảo chắc chắn cho việc chấm bài thi một
cách chính xác và đúng tiêu chuẩn. Bạn có thể tham khảo các bảng mô tả thang điểm
cho bài Viết - Đề tài 1, Đề tài 2 và cho bài thi nói
Thang
điểm đánh giá :
IELTS không có đỗ và trượt.
Thí sinh sẽ nhận được Giấy chứng nhận kết quả và trên đó thể hiện số điểm từ 1
– 9. Giấy chứng nhận kết quả sẽ ghi rõ tổng điểm và điểm trung bình cho từng phần
thi. Kết quả bài thi IELTS được đánh giá trên một thang điểm 9 cấp. Mỗi một mức
điểm điểm ứng với từng trình độ khác nhau, trong đó có tính đến điểm 0.5 (Ví dụ
như 6.5 hay 7.5).
- 9 - Thông thạo: Đã hoàn
toàn nắm vững ngôn ngữ với một sự phù hợp, chính xác, lưu loát và thông hiểu
hoàn toàn đầy đủ.
- 8 - Rất tốt: Hoàn toàn nắm
vững ngôn ngữ, chỉ đôi khi mắc những lỗi như không chính xác, không phù hợp
nhưng lỗi này chưa thành hệ thống. Trong những tình huống không quen thuộc có
thể sẽ không hiểu. Sử dụng tốt với những chủ đề tranh luận phức tạp, tinh vi.
- 7 - Tốt: Nắm vững ngôn ngữ,
nhưng đôi khi có những sự không chính xác, không phù hợp, không hiểu trong một
số tình huống. Nói chung là sử dụng tốt ngôn ngữ phức tạp và hiểu những lý lẽ
tinh vi.
- 6 - Khá Sử dụng ngôn ngữ
tương đối hiệu quả tuy có những chỗ không chính xác, không phù hợp, không hiểu.
Có thể sử dụng và hiểu tốt ngôn ngữ phức tạp, đặc biệt là trong những tình huống
quen thuộc.
- 5 - Bình thường: Sử dụng
được một phần ngôn ngữ, nắm được nghĩa tổng quát trong phần lớn các tình huống,
dù thường xuyên mắc lỗi. Có thể sử dụng ngôn ngữ trong những lĩnh vực riêng
quen thuộc của mình.
- 4 - Hạn chế: Có sự thành
thạo cơ bản bị hạn chế trong những tình huống quen thuộc. Thường có khó khăn
trong việc sử dụng ngôn ngữ phức tạp.
- 3 - Cực kì hạn chế: Có thể
nói và hiểu trong những tình huống rất quen thuộc. Thường thất bại trong giao
tiếp.
- 2 - Lúc được lúc không:
Không có những giao tiếp thực sự ngoại trừ những thông tin cơ bản nhất với những
từ ngữ riêng lẻ hoặc những cú pháp ngắn trong tình huống thông thường để đạt được
mục đích tức thời. Khó khăn lớn trong việc nói và viết tiếng Anh.
- 1 - Không biết sử dụng:
Hoàn toàn không có khả năng sử dụng tiếng Anh ngoài vài từ riêng lẻ.
- 0 - Bỏ thi: Không một
thông tin nào để chấm bài. Người dự thi đã không thể tham dự kì thi.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét